Hạ Glucose máu
HẠ
GLUCOSE MÁU
I. ĐẠI CƯƠNG
1. Đặc điểm sinh lý
Triệu chứng hạ glucose máu thường xảy ra khi
lượng glucose huyết tương còn khoảng 2,7-3,3 mmol/l. Nếu glucose huyết tương
lúc đói < 2,8 mmol/l (50 mg/dl) là hạ glucose máu nặng, còn khi lượng
glucose máu < 3,9 mmol/l (< 70 mg/dl) đã bắt đầu được xem là có hạ
glucose máu. Người bệnh trẻ tuổi có xu hướng biểu hiện lâm sàng ở mức glucose
huyết tương cao hơn (3,8 mmol/l= 68 mg/dl) so với người trưởng thành (3,1
mmol/l= 56 mg/dl).Tuỳ theo mức glucose trong huyết tương sẽ có những biểu hiện
lâm sàng tương ứng.
Hạ glucose máu là hậu quả của tình trạng mất
cân bằng giữa hai quá trình cung cấp và tiêu thụ glucose trong máu (hệ tuần
hoàn).
Các nguyên nhân thường gặp là:
+ Sử dụng thuốc làm tăng bài tiết insulin với
liều không phù hợp (insulin là hormon có tác dụng ức chế sản xuất glucose tại
gan, kích thích tiêu thụ glucose ở cơ vân và mô mỡ).
+ Giảm tiếp nhận thức ăn (do chế độ ăn uống khắt
khe hoặc có vấn đề về rối loạn hấp thu).
+ Tăng mức độ luyện tập (làm tăng sử dụng
glucose ở cơ vân).
Khi glucose máu hạ thấp, cơ thể sẽ tự bảo vệ bằng
cách tăng tiết các hormon có đặc điểm làm tăng glucose máu, còn gọi là các
hormon điều hòa ngược hay hormon có tác dụng đối kháng với insulin: ví dụ
glucagon, catecholamin (adrenalin), cortisol. Glucagon, adrenalin có vai trò
quan trọng; chúng là những chất kích thích bài tiết glucose tại gan; ngoài ra
adrenalin còn làm tăng glucose máu bằng cách giảm thu nạp glucose tại mô.
Các phản ứng sinh lý có tính cơ bản như giảm
bài tiết insulin (phản ứng cơ bản thứ nhất), tăng tiết glucagon (phản ứng cơ bản
thứ hai), thường xảy ra có tính tức thời và nhiều khi không kèm triệu chứng lâm
sàng. Từ phản ứng tăng tiết adrenalin (được xem như phản ứng cơ bản thứ ba) đã
bắt đầu có biểu hiện rõ về lâm sàng, đồng thời đã gây ra những rối loạn khác
ngoài hạ glucose máu. Phản ứng này cũng chỉ xuất hiện khi glucagon không đủ khả
năng điều hoà lại glucose máu một cách sinh lý.
Tuy nhiên ở các người bệnh đái tháo đường typ
1, đáp ứng với hạ glucose máu sẽ bất thường, do:
- Suy giảm bài tiết glucagon.
- Khi thời gian mắc bệnh kéo dài, sự bài tiết của
adrenalin cũng suy giảm.
- Lượng insulin hấp thu qua đường dưới da thay đổi
sẽ phá vỡ thế cân bằng vốn đã mỏng manh giữa hai hệ thống hormon điều hoà
glucose máu.
2. Những đặc điểm cần lưu ý khác
- Hệ thống hormon điều hoà glucose máu và các
triệu chứng báo động của hệ thống thần kinh tự chủ giảm đi sau nhiều năm bị đái
tháo đường.
- Một vài loại thuốc được sử dụng điều trị đái
tháo đường và biến chứng cũng có khả năng gây hạ glucose máu hoặc làm mờ đi các
dấu hiệu sớm của hạ glucose;
- Liệu pháp điều trị tích cực bằng insulin làm
tăng nguy cơ hạ glucose máu không triệu chứng, nhất là ở người bệnh bị bệnh đã
lâu, người bệnh lớn tuổi.
- Một số bằng chứng cho thấy việc sử dụng
insulin người cũng làm tăng tỷ lệ hạ glucose máu không triệu chứng.
II.
CHẨN
ĐOÁN
1. Chẩn đoán xác định phải dựa vào xét nghiệm
sinh hóa
Sinh hoá: Khi nồng độ glucose máu <
2,8mmol/l (50 mg/dl) là hạ glucose máu nặng, còn khi glucose máu <3,9mmol/l
(< 70mg/dl) đã bắt đầu được xem là có hạ glucose máu (hạ glucose máu sinh
hóa).
2. Lâm sàng
Có nhiều mức độ.
2.1.
Mức độ nhẹ
Thường là các triệu chứng vã mồ hôi, run chân
tay và đói. Đây là triệu chứng của hệ thần kinh tự chủ.
Các triệu chứng này sẽ mất đi khoảng 10 -15
phút sau khi ăn, uống 10 - 15 gram carbohydrate. Ở mức độ này người bệnh có khả
năng tự điều trị được.
2.2.
Mức độ trung bình
Ở mức độ này, có các triệu chứng lâm sàng do
đáp ứng của hệ thống thần kinh tự chủ và của hệ thần kinh trung ương với giảm
lượng glucose ở mô như: đau đầu, thay đổi hành vi, dễ bị kích thích, giảm khả
năng chú ý, ngủ gà.
Thông thường người bệnh không đủ tỉnh táo để kết
hợp điều trị với thày thuốc. Thời gian phục hồi sẽ lâu hơn. Nếu không can thiệp
kịp thời, người bệnh cũng mau chóng chuyển sang mức nặng.
2.3.
Mức độ nặng
Lúc này lượng glucose máu hạ rất thấp. Biểu hiện
lâm sàng bằng hôn mê, mất cảm giác hoặc những cơn co giật. Cấp cứu lúc này cần
truyền glucose tĩnh mạch và/hoặc glucagon (tiêm bắp hoặc tiêm dưới da).
2.4.
Hạ glucose máu tiềm tàng hay hạ glucose máu
không triệu chứng
Trước đây người ta cho rằng hạ glucose máu
không có triệu chứng cảnh báo - hay hạ glucose máu tiềm tàng - là rất hiếm. Thật
ra tai biến này rất hay gặp, nhất là ở những người bệnh được áp dụng phương
pháp trị liệu tích cực. Những người có cơn hạ glucose máu không triệu chứng lặp
lại nhiều lần sẽ gây ra những tác hại:
-
Làm
"cùn" đi cơ chế hoạt động của hệ thống hormon ngăn chặn hạ glucose
máu.
-
Hạ thấp
ngưỡng "báo động" về nguy cơ hạ glucose máu của cơ thể.
Để chẩn đoán xác định người bệnh cần định lượng
glucose máu, khi lượng glucose máu <3,1mmol/l (< 55mg/dl) đã bắt đầu được
xem là có hạ glucose máu tiềm tàng trên lâm sàng, lúc này đã cần đến sự can thiệp
của các nhà chuyên môn có kinh nghiệm.
Khi đã có hạ glucose máu không triệu chứng,
không nên điều khiển phương tiện giao thông, không nên tiếp tục luyện tập...
Xét
nghiệm thường qui: tổng phân tích tế bào máu bằng phương pháp tổng trở, định lượng
ure, creatinin, billand lipid máu, điện giải đồ, điện tim, tổng phân tích nước
tiểu.
III. ĐIỀU TRỊ
CƠN HẠ GLUCOSE MÁU
1. Với thể nhẹ
Chỉ cần 10-15g carbohydrate uống là glucose
máu nhanh chóng trở lại bình thường (uống đường, nước đường).
Cần nhớ, không dùng socola và kem để điều trị
hạ glucose máu cấp.
Trường hợp người bệnh đang đi trên đường, hoặc
người bệnh đang điều khiển phương tiện giao thông, có dấu hiệu hạ glucose máu,
tốt nhất là nên dừng lại 10 - 15 phút đợi khi glucose máu trở lại bình thường
hãy tiếp tục công việc.
2. Thể trung bình
Có thể dùng đường uống để can thiệp, nhưng cần
thời gian dài hơn và liều dùng lớn hơn để glucose máu trở lại bình thường. Có
thể dùng glucagon tiêm bắp hoặc dưới da kết hợp với uống carbohydrat (đường, nước
đường).
3. Hạ glucose máu nặng
Do người bệnh mất ý thức nên không có khả năng
nuốt, vì thế cho uống có thể sẽ bị sặc vào đường thở. Những người bệnh này buộc
phải tiêm bắp hoặc tiêm dưới da glucagon và tiêm tĩnh mạch glucose ưu trương và
sau đó tiếp tục truyền tĩnh mạch glucose.
Thông thường tình trạng lâm sàng sẽ khá lên
sau 10 - 15 phút tiêm glucagon và 1 - 5 phút sau truyền glucose. Nếu hạ glucose
máu đã lâu và mức đường trong máu quá thấp, việc phục hồi tâm thần có thể lâu
hơn (trong nhiều giờ). Trong trường hợp này có truyền đường nữa hay không là tuỳ
thuộc vào hàm lượng glucose trong máu.
Nếu hạ glucose máu có triệu chứng thần kinh,
giai đoạn sau có thể có đau đầu, trạng thái u mê, mất trí nhớ và nôn mửa. Trường
hợp này có thể dùng thuốc an thần để điều trị triệu chứng.
Sau khi qua giai đoạn cấp cứu, người bệnh nên
đề phòng bằng cách hoặc là tăng chế độ ăn hoặc ăn bữa ăn phụ (tỷ lệ ~10% tổng số
calo trong ngày).
Glucose
qua đường tĩnh mạch
Là phương pháp điều trị cơ bản nhất nếu có sẵn
nhân viên y tế phục vụ. Trong trường hợp hạ glucose máu nặng, glucose tiêm tĩnh
mạch phối hợp với glucagon được xem là phương pháp cấp cứu hoàn hảo nhất. Hạn
chế của phương pháp này là phải có nhân viên y tế. Thường khi bắt đầu cấp cứu
người ta thường dùng: 50 - 100ml dung dịch glucose 30%.
Thời gian để tiến hành cấp cứu ban đầu từ 1-3
phút. Cấp cứu ban đầu tiêm glucose vào đường tĩnh mạch sau đó sẽ tiếp tục duy
trì đường truyền tĩnh mạch.
Liều cấp cứu tiếp theo phụ thuộc đáp ứng của
người bệnh. Thông thường, người ta cho glucose đường tĩnh mạch với liều
5-10g/giờ. Glucose sẽ được tiếp tục truyền cho đến khi người bệnh hồi phục hoàn
toàn và có khả năng tự ăn, uống được.
4. Hạ glucose máu không được cảnh báo hay hạ
glucose máu không triệu chứng
Theo nghiên cứu DDCT (Diabetes Cotrol and
Complication Trial) thì 1/3 các trường hợp hạ glucose máu nặng xảy ra khi người
bệnh thức. Đặc biệt hạ glucose máu thể này thường xảy ra ở những người bệnh được
điều trị tích cực, nhưng không kèm theo các dấu hiệu hoặc triệu chứng để người
bệnh có thể nhận biết ngăn ngừa các triệu chứng về thần kinh của thiếu glucose
tại mô.
Để phòng chống, cách tốt nhất là giáo dục cho
người bệnh cách tự theo dõi glucose máu, tự điều chỉnh lại chế độ luyện tập, chế
độ ăn uống.
Ngược lại với hạ glucose máu trung bình và nặng
có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, trong hạ glucose máu không triệu chứng, lượng
glucose máu tưởng như được duy trì ở mức an toàn. Những cơn hạ glucose máu kiểu
này xảy ra với thời gian dài hoặc ngắn nhưng liên tục sẽ rất nguy hiểm vì nó có
khả năng gây huỷ hoại hệ thống thần kinh trung ương. Đặc biệt nguy hiểm nếu những
cơn này xảy ra ở người trẻ. Một số người bệnh phát triển đến cảm giác sợ hãi do
hạ glucose máu hoặc những nhận thức sai lệch khác. Cảm giác sợ hãi do hạ
glucose máu dẫn đến ăn quá nhiều, làm cho mất tác dụng điều trị của insulin. Nếu
hiện tượng đó xảy ra, cần phối hợp liệu pháp điều trị làm ổn định tinh thần cho
người bệnh. Trong thời gian này cần duy trì lượng glucose máu ở giới hạn từ
11,1-16,7 mmol/l.
5. Lưu ý hiệu ứng Somogyi (tăng glucose huyết phản
ứng sau cơn hạ glucose máu)
Nguyên lý của hiệu ứng này là khi lượng
glucose máu hạ thấp sẽ kích thích hệ thống hormon đối kháng tác dụng của
insulin, bài tiết các hormon có tác dụng làm tăng glucose huyết (Glucagon,
Adrenalin, Cortisol, hormon tăng trưởng). Quá trình phóng thích glucose từ
glycogen dự trữ ở gan được kích thích, do vậy làm tăng lượng glucose trong máu.
Điều đáng lưu ý là chính các hormon này có thể là nguyên nhân kháng insulin từ
12 đến 48 giờ. Cũng còn một nguyên nhân nữa làm tăng glucose máu là do lượng đường
đưa vào cấp cứu quá nhiều so với yêu cầu của cơ thể.
Hiệu ứng Somogyi có thể xảy ra sau một cơn hạ
glucose máu ban đầu, nhưng cũng có khi xảy ra bất cứ lúc nào sau khi có cơn hạ
glucose máu. Hiệu ứng Somogyi rất hay gặp trong quá trình điều trị, nhất là khi
người bệnh sử dụng thuốc hạ glucose máu không hợp lý.
Để phòng tránh hiệu ứng Somogyi về đêm, có thể
giảm liều insulin buổi tối hoặc ăn bữa phụ trước khi đi ngủ.
Hiệu ứng Somogyi có thể đưa đến chẩn đoán lầm
là tăng glucose máu do chưa đủ liều insulin, để chẩn đoán hiệu ứng này cần đo
insulin trong vài giờ liên tiếp, nếu glucose huyết thay đổi nhanh từ thấp đến
cao, thí dụ glucose máu đo lần đầu là 40 mg/dl, 2-3 giờ sau glucose máu tăng đến
400 mg/dl thì đó là hiệu ứng Somogyi hay tăng glucose máu do phản ứng.
Theo dõi glucose máu mao mạch mỗi 1-3h/lần cho đến khi bệnh nhân tỉnh táo ăn uống được.
IV. PHÒNG
VÀ CHỐNG HẠ GLUCOSE MÁU
Để phòng chống cơn hạ glucose máu có hiệu quả,
việc cần làm là tìm hiểu những nguyên nhân có thể gây ra hạ glucose máu.
1. Các nguyên nhân hay gặp của hạ glucose máu
1.1. Những nguyên nhân có liên quan đến sử dụng
insulin
-
Do quá
liều.
-
Thời
gian tiêm không phù hợp với bữa ăn hoặc loại insulin dùng không phù hợp.
-
Liệu
pháp điều trị tăng cường bằng insulin.
-
Thất
thường hấp thu của insulin tại nơi tiêm.
+ Hấp thu nhanh hơn nếu tiêm ở vùng hay vận động.
+ Vị trí tiêm có vấn đề: teo lớp mỡ dưới da hoặc
loạn dưỡng vùng tiêm...
- Sử dụng nhiều insulin tinh khiết hoặc đổi từ dạng
tổng hợp sang các dạng insulin trộn hoặc insulin người làm thay đổi tốc độ hấp
thu.
1.2. Chế độ dinh dưỡng
-
Ăn ít.
Bữa ăn không đủ lượng carbohydrate so với liều insulin.
-
Thời
gian giữa các bữa ăn chưa phù hợp.
1.3. Luyện tập
Không có kế hoạch, hoặc mức độ và thời gian
luyện tập không phù hợp.
1.4. Uống rượu và sử dụng phối hợp với một số thuốc
-
Khả
năng tân tạo đường tại gan bị suy giảm khi uống rượu.
Các nguyên nhân gây hạ glucose máu hay gặp nhất
là những sai sót trong chỉ định liều lượng insulin, lịch trình các mũi tiêm, sự
phân bố các bữa ăn không phù hợp, đây là những nguyên nhân chính gây ra hạ
glucose máu.
1.5. Các nguyên nhân khác
Người ta cũng đã ghi nhận những lý do tưởng
như hiếm gặp khác; ví dụ:
- Ngủ muộn hơn lệ thường cũng là mối nguy hiểm
tiềm tàng cho người bệnh, vì nó làm vỡ thế cân bằng giữa thời gian tiêm insulin
và việc thu nhận thức ăn của cơ thể.
- Nhiều trường hợp hạ glucose máu nặng, thậm chí
tử vong, xảy ra sau các bữa tiệc do người bệnh uống nhiều rượu, hoặc sau khi có
tăng hoạt động đột ngột mà không giảm liều thuốc hoặc không có chế độ bù đắp
cho đủ số năng lượng bị tiêu hao.
2. Các yếu tố liên quan đến phòng cơn hạ glucose
máu
Một chế độ điều trị phù hợp bao gồm chế độ ăn,
chế độ nghỉ ngơi, chế độ tiêm thuốc, chế độ luyện tập phù hợp, là biện pháp
phòng chống hữu hiệu nhất.
2.1. Giấc ngủ
Để đảm bảo an toàn, người ta thường tiêm
insulin bán chậm vào buổi tối. Với liều dự tính thông thường người bệnh có thể
ngủ thêm 30-60 phút. Nhưng nếu người bệnh ngủ thêm trên 1 giờ phải bổ sung năng
lượng hoặc đổi liều insulin. Ví dụ nếu người bệnh định ngủ thêm trên 60 phút,
có thể giảm 10-15% liều insulin bán chậm hoặc chậm của mũi tiêm tối hôm trước.
Cũng có thể người bệnh vẫn sử dụng thuốc đúng liều lượng, nhưng được đánh thức
dậy đúng giờ, làm test kiểm tra glucose máu, ăn sáng, tiêm mũi insulin buổi sáng
rồi lại ngủ tiếp.
2.2. Chế độ luyện tập
Luyện tập làm tăng sự hấp thu, tăng nhạy cảm của
insulin ở mô đích. Điều quan trọng để tránh hạ glucose máu khi luyện tập là người
bệnh phải có nguồn carbohydrate bổ sung kịp thời, nhanh chóng. Trường hợp đang
luyện tập mà có dấu hiệu hạ glucose máu phải ngừng tập ngay. Nếu hạ glucose máu
xảy ra sau khi tập, phải có bữa ăn phụ trước khi tập. Để tránh hạ glucose máu
khi luyện tập người ta còn khuyên nên giảm liều insulin. Đây là biện pháp dự
phòng không tăng năng lượng, thường áp dụng cho những đối tượng không muốn tăng
cân.
3. Giáo dục, hướng dẫn người bệnh tự theo dõi, điều
chỉnh chế độ điều trị
Để người bệnh hiểu và tự theo dõi bệnh luôn là
mục đích quan trọng nhất của công tác giáo dục sức khoẻ cộng đồng. Việc tự theo
dõi glucose máu phải được giáo dục cho tất cả người bệnh đái tháo đường, kể cả
người chưa có điều kiện sử dụng máy theo dõi đường huyết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cẩm nang chẩn đoán và điều trị
bệnh nội khoa của Bệnh viện Bạch Mai,
nhà xuất bản y học – 2022
2. Hướng dẫn chẩn đoán và xử trí hồi
sức tích cực (Ban hành kèm theo Quyết định số 1493/QĐ-BYT ngày 22/4/2015 của Bộ
trưởng Bộ Y tế
3. Philip E Cryer, MD, Irene E. and Michael M.
Karl (2024). Hypoglycemia
During Therapy of Diabetes; Therapy for Diabetes Mellitus and related
Disorders.
4. Philip E. Cryer: Glucose Homeostasis andHypoglycemia; Williams
Textbook of Endocrinology-Edition 11th (2024) ; p 1503-1533.
Nhận xét
Đăng nhận xét