Ong đốt
ONG ĐỐT
1. ĐẠI
CƯƠNG
- Ong thuộc
họ cánh màng gồm 2 họ chính:
+ Họ ong vò vẽ bao gồm: ong vò vẽ, ong bắp cày, ong vàng.
+ Họ ong mật gồm: ong mật và ong bầu.
- Bộ phận gây độc gồm túi nọc và ngòi nằm ở phần
bụng sau của con cái. Ngòi của ong mật có hình răng cưa do vậy sau khi đốt ong
bị xé rách phần bụng và để lại ngòi ong trên da và con ong sẽ bị chết. Ong vò vẽ
thì ngòi ong trơn nên có thể đốt nhiều lần.
- Nọc ong có khoảng 40 thành phần bao gồm các
enzyme như phospholipase A2, hyaluronidase, cholinesterase, serotonin,
catecholamin, peptid, melitin, các peptit hủy tế bào mast, apamin, các amin có
hoạt tính sinh học. Melittin: chiếm 50% trọng lượng của nọc khô, làm tổn thương
màng tế bào do có tác dụng như một chất tẩy. Apamin: độc tố thần kinh tác động
chủ yếu lên tủy sống; phospholipase A2 có tác dụng làm vỡ hồng cầu,
hyaluronidase có tác dụng hủy acid hyaluronic của tổ chức liên kết làm nọc ong
lan nhanh. Đa số các thành phần của nọc ong có trọng lượng phân tử thấp (từ 1,2
- 170 kd) nên có thể lọc được qua màng lọc của phương pháp lọc máu tĩnh mạch -
tĩnh mạch liên tục.
- Liều độc:
phụ thuộc rất nhiều vào loại ong và số vết đốt.
- Mức độ nặng phụ thuộc vào loại ong, số nốt đốt
và vị trí đốt. Ở người lớn bị ong vò vẽ đốt từ trên 30 vết đốt trở lên là nặng,
trẻ em bị từ trên 10 nốt đốt là nặng.
- Tử vong do ong đốt chiếm từ 40-100 người/ năm
tại Mỹ nhưng con số thực tế cao hơn. Tử vong có thể xảy ra rất sớm trong vòng
giờ đầu do sốc phản vệ (chiếm từ 3-8% người bị ong đốt) và tử vong muộn trong
những ngày sau do độc tố của nọc ong. Ở Việt Nam ong mật thường không gây tử
vong do độc tố.
- Việc xử trí sớm, tích cực tập trung vào việc
truyền dịch, tăng cường bài niệu có thể làm giảm được mức độ nặng.
- Nhận dạng
loại ong
Ong bắp cày Ong vò vẽ Ong mật
Hình 20.5: Ong bắp cày, ong vò vẽ và ong mật (Trung tâm
chống độc bệnh viện Bạch Mai)
Hình 20.6: Tổ ong vò vẽ (bên trái) và vết đốt của ong vò
vẽ (bên phải) (Trung tâm chống độc bệnh viện Bạch Mai)
2. NGUYÊN NHÂN
- Do tai nạn trong lao động, sinh hoạt, khi đi rừng
bị ong đốt thường là ong đất, bắp cày, ong bò vẽ, ong vàng, độc tính cao
- Nuôi ong lấy mật hoặc lấy mật ong rừng thường
là ong mật.
- Do trẻ trêu chọc, ném, phá tổ ong thường là
ong vàng hoặc ong vò vẽ
3. CHẨN ĐOÁN
a. Chẩn
đoán xác định
■ Triệu chứng lâm sàng
- Tại chỗ:
+Biểu hiện: đỏ da, đau buốt, ngứa, phù nề, đường
kính một vài cm quanh chỗ đốt.
+Đau chói sau vài phút chuyển thành đau rát bỏng.
+Nốt ong châm ở giữa hoại tử trắng, xung quanh
có viền đỏ, phù nề, tổn thương trên da tồn tại vài ngày đến vài tuần.
+Nếu bị nhiều nốt đốt có thể gây phù nề toàn bộ
chi hoặc thân.
+Ong vào vùng hầu họng gây phù nề, co thắt
thanh quản gây khó thở cấp.
+Ong đốt vào vùng quanh mắt hoặc mi mắt có thể
gây đục màng trước thuỷ tinh thể, viêm mống mắt, áp xe thuỷ tinh thể, thủng
nhãn cầu, tăng nhãn áp, rối loạn khúc xạ.
+Các triệu chứng cục bộ nặng nhất vào 48-72 giờ
sau khi bị ong đốt và kéo dài hàng tuần.
+ Tiêu cơ vân xuất hiện sau 24-48 giờ có thể dẫn
đến vô niệu do tắc ống thận
+ Nọc ong châm thẳng vào mạch máu có thể gây
lên các triệu chứng nhanh hơn, nặng hơn.
- Triệu chứng toàn thân
- Sẩn ngứa,
mề đay, cảm giác nóng ran trong vòng vài giờ sau đốt
+ Xảy ra khi bị nhiều nốt đốt. Nếu > 50 nốt,
các triệu chứng toàn thân có thể biểu hiện ngay lập tức (rất khó phân biệt giữa
sốc do độc tố của nọc ong với phản vệ) hoặc sau vài ngày. Bao gồm phù lan rộng,
cảm giác bỏng da, vã mồ hôi, viêm kết mạc.
+ Tiêu hóa: Biểu hiện buồn nôn, nôn, đau bụng,
ỉa chảy. Có thể gặp hoại tử tế bào gan ở những bệnh nhân tử vong
+ Tim mạch: giai đoạn đầu mạch nhanh, tăng huyết
áp, nhồi máu cơ tim sau tụt huyết áp, sốc.
+ Thần kinh: yếu cơ, mệt mỏi, chóng mặt, đau đầu,
hôn mê và co giật.
+ Huyết học: tan máu, đái máu, giảm tiểu cầu,
chảy máu nhiều nơi (Lưu ý chảy máu phổi
hoặc não). Có thể có rối loạn đông máu kiểu đông máu lan tỏa trong lòng mạch.
+ Thận: đái ít, nước tiểu sẫm màu, chuyển từ
màu hồng sang đỏ sẫm hoặc nâu đỏ rồi vô niệu nhanh chóng nếu không điều trị kịp
thời. suy thận cấp thể vô niệu có thể tiến triển do hoại tử ống thận thứ phát từ
tiêu cơ vân, tan máu và từ thiếu máu thận; cũng có thể có sự góp phần của cơ chế
miễn dịch. Tuy nhiên các amin giao cảm trong thành phần nọc ong gây co mạch, giảm
tưới máu thận, hoại tử ống thận cùng với sự bít tắc của ống thận do myoglobin
và hemoglobine đóng vai trò chính và đây là cơ sở cho biện pháp điều trị bài niệu
tích cực trong điều trị ong đốt.
+ Triệu chứng phản vệ: thường xảy ra sau khi bị
ong đốt vài phút đến vài giờ và tử vong thường xảy ra trong giờ đầu. Sốc phản vệ
chiếm từ 0,3-3 thậm chí 8% các trường hợp ong đốt.
Biểu hiện:
• Da: đỏ
da toàn thân, phù mạch, nổi mày đay, ngứa.
• Hô hấp:
phù lưỡi, co thắt phế quản, tăng tiết dịch phế quản, co thắt thanh quản gây khó
thở thanh quản. Trường hợp nặng có thể gặp chảy máu phổi.
• Tim mạch:
nhịp nhanh, tụt huyết áp, ngất, điện tim thay đổi ST và T.
• Tiêu
hóa: nôn, buồn nôn, ỉa chảy, đau quặn bụng, đầy bụng.
- Phản ứng
chậm, xuất hiện nhiều ngày sau khi bị ong đốt (8-15 ngày)
+ Kiểu type III và IV của Gell và Coombs
+ Phản ứng kiểu bệnh huyết thanh kèm theo sốt,
mề đay, đau khớp.
+ Phản ứng thần kinh kiểu Guinain Barré, hội
chứng ngoại tháp, hội chứng màng não, bệnh não cấp.
+ Biểu hiện thận: thận nhiễm mỡ, viêm cầu thận
■ Xét
nghiệm đánh giá mức độ nặng và theo dõi diễn biến
- Công thức
máu
- Sinh
hoá: Urê, creatinin, điện giải đồ, đường, CK tăng, CKMB, AST, ALT, bilirubin
toàn phần, trực tiếp, gián tiếp, hồng cầu lưới.
- Tổng
phân tích nước tiểu..., myoglobin niệu.
- Đông
máu cơ bản. Khi có tổn thương gan và rối loạn đông máu cần làm đông toàn bộ ít
nhất 1 lần/ngày.
- Điện
tim.
- XQ tim
phổi
b. Chẩn đoán phân biệt: với vết đốt do các loại côn trùng khác
Không có thuốc điều trị đặc hiệu, chủ yếu là
điều trị triệu chứng
- Tại vết
đốt: chườm lạnh.
- Giảm
phù nề: prednisolon 40-60 mg uống một lần hoặc methylprednisolon 40mg tiêm tĩnh
mạch 1-2 lần/ngày, có thể giảm liều dần theo nguyên tắc “vuốt đuôi” trong 3-5
ngày.
- Nếu bị
sốc phản vệ điều trị theo phác đồ xử trí sốc phản vệ:
+ Quan trọng nhất là nhanh chóng tiêm bắp
adrenalin người lớn 0,3- 0,5 mg, trẻ em: 0,01 mg/kg; nếu trẻ nặng > 50 kg
thì liều tối đa 1 lần 0,5 mg, nhắc lại sau 5 -15 phút nếu cần. Nếu tiêm bắp 3 lần
mà HA vẫn thấp thì pha truyền với liều từ 0,15µg/kg/phút. chỉnh liều để đạt HA
mong muốn.
+ Thở oxy 8-10l/ph, nếu suy hô hấp cần đặt nội
khí quản, thở máy
+ Đặt bệnh nhân nằm thẳng đầu thấp
+ Truyền dịch: natriclorua 0,9% nhanh 20
ml/kg/h, đánh giá lại, truyền lại khi cần.
+ Khí dung khi co thắt phế quản.
+ Kháng H1: Pipolphen 50mg/1 ống: 1
mg/kg TB (tối đa 40 mg).
+ Kháng H2: PPI có omeprazole,
lanzoprazol, 01 lọ TMC
+ Corticoides: Kortimed 0.1g/lọ, 2-3 lọ/ngày.
- Phòng
suy thận cấp:
Bài niệu tích cực là một trong những biện pháp
điều trị ong đốt cơ bản và hiệu quả
+ Nhẹ: Cho bệnh nhân uống nhiều nước,
2000-3000ml nước/24 giờ, ngay sau khi bị ong đốt nếu bệnh nhân còn tỉnh táo,
nên dùng dung dịch ORESOL.
+ Nặng: có tụt huyết áp, hoặc bị > 10 nốt đốt:
Tăng cường thải độc bằng phương pháp bài niệu tích cực.
- Lọc
máu: (tuyến tỉnh)
- Tiêm phòng uốn ván nếu vùng ong đốt bị nhiễm bẩn.
- Lấy ngòi ong ra khỏi da bệnh nhân: nếu ong mật
đốt, lấy sớm sau khi bị đốt.
- Dị ứng nhẹ (mày đay): uống hoặc tiêm kháng
histamin, corticoid.
- Chú ý: Khi bị
nhiều nốt đốt gây tình trạng tụt huyết áp nên tiêm bắp ngay adrenalin 0,3-0,5
ml dung dịch 1/1000 (vì rất khó phân biệt được là do sốc phản vệ hay độc tố
toàn thân, kết hợp kháng histamine (Pipolphen 50mg/1ml) 1 - 5 ống.
Tiên lượng phụ thuộc vào loại ong, số lượng vết
đốt, vị trí đốt, được điều trị bài niệu tích cực sớm hay muộn, có bệnh phối hợp
hay không? Thông thường: ong bắp cày độc
hơn ong vò vẽ, ong vò vẽ độc hơn ong vàng.
Tiên lượng tốt nếu người lớn bị đốt < 10 nốt,
nếu > 30 nốt cần thận trọng.
Biến chứng: suy gan, suy thận cấp thể vô niệu,
rối loạn đông máu, tan máu, suy đa tạng gây tử vong.
Nhiễm trùng thứ phát sau khi bị đốt (hiếm khi
xảy ra) nhưng nếu có thường gặp vào ngày thứ 5 sau ong đốt khi các phản ứng tại
chỗ đã giảm đi nhưng thấy xuất hiện sưng, nóng, đỏ, đau tăng lên nhiều, thậm
chí có thể sốt, cần cho kháng sinh.
- Với những người có cơ địa dị ứng nhất là đã có
tiền sử dị ứng với ong nên chuẩn bị sẵn bơm tiêm nạp sẵn có adreanalin để tiêm
dưới da nếu bị ong đốt.
- Khi vào rừng không nên xịt nước hoa, trang điểm
và mặc quần áo sặc sỡ hoặc quần áo in hình những bông hoa vì sẽ hấp dẫn ong.
- Khi đi dã ngoại thì lưu ý những đồ ăn, nước uống
ngọt cũng lôi kéo ong đến.
- Không đi chân không vào rừng vì có thể dẫm phải
tổ ong.
- Nếu có ong vò vẽ quanh đầu và người bạn, lúc
đó bạn nên bình tĩnh, hít thở sâu vì ong đang khám phá bạn có phải là bông hoa
không hay là một cái gì có ích cho nó, nếu nó phát hiện là người thì ong sẽ bay
đi.
- Không chọc phá tổ ong.
- Khi trong nhà hoặc ngoài vườn có tổ ong thì
bạn nên nhờ chuyên gia để dỡ bỏ tổ ong.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Văn Đính và cộng sự (2007), “Ong đốt”, Hồi sức cấp cứu toàn tập, NXB Y học, trang 437-440.
2. Richard F (2006), “Hymenoptera”, Poisoning and Drug overdose, 5th edition, Mc Graw Hill-LANGE, electronic version.
3. In-hei Haln (2006), “Arthropods”, Goldfrank’s Manual of Toxicologic Emergency, 8th edition, Mc Graw Hill, P. 1603 - 1622.
4. William J (2001), “Hymenoptera”, Clinical Toxicology, W.B. Saunders Company, P. 894-898.
5. Theodore F. (2015), „‟Bee, yellow jacket, wasp, and other Hymenoptera stings: Reaction types and acute management”, Uptodate.
6. Quyết định số 3610/QĐ-BYT ngày 31/8/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế
Nhận xét
Đăng nhận xét